Đặc điểm Piano_bốn_tay

  • Nói chung, trong hình thức biểu diễn này, mỗi nhạc công phải ngồi đủ xa nhau, mỗi người phụ trách "một nửa" dương cầm, nhưng tay vẫn có thể "trèo" sang bên kia tùy phát triển của giai điệu và yêu cầu nhạc phẩm.[5]
  • Bản tổng phổ cho cho piano bốn tay thường được in sao cho các trang bên trái chỉ chứa phần dành cho nhạc công ngồi bên trái, còn các trang bên phải chỉ chứa phần dành cho nhạc công ngồi bên phải. Phần trên của mỗi trang được gọi là primo (phần đầu), còn phần dưới được gọi là secondo (phần thứ).
  • Theo "the Grove Dictionary of Music and Musicians" (fừ điển về âm nhạc và nhạc sĩ Grove) piano bốn tay (kiểu duet) có sức biểu hiện hơn "piano hai tay", vì có thể biểu hiện tới bốn phức điệu. Tuy nhiên, so với song tấu (duo) thì "hình thức song tấu piano quyến rũ hơn và phong phú hơn".[6]
  • Piano bốn tay trở nên phổ biến vào nửa sau của thế kỷ 18. Mozart hồi còn nhỏ thường chơi hình thức này với chị của mình, và sau đó đã viết nhiều bản sonata cho bốn tay. Schubert đã sáng tác cho thể loại này nhiều nhạc phẩm nổi tiềng, như Grand Duo, D812. Jane Bellingham trong cuốn sách "The Oxford Companion to Music" liệt kê các nhà soạn nhạc khác đã viết các bản song tấu piano, bao gồm Brahms, Dvořák, Grieg, Debussy, Stravinsky và Bartók. Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 các bản song tấu piano của Pháp bao gồm Jeux d'enfants của Bizet, Dolly Suite của Fauré và Ma mère l'oye của Ravel.[7]